Phố cổ Hội An - Di sản văn hóa thế giới

http://www.hoianworldheritage.org.vn


Lễ rước Long Chu - Hội An

Long Chu là từ chỉ chiếc thuyền làm theo hình con rồng. Đây là phương tiện sang trọng dành riêng cho vua chúa ngự lãm hoặc tuần du ngày xưa. Với dân gian xưa, ôn hoàng, dịch lệ là lực lượng siêu nhiên gây hại cho người, đáng ghét đáng sợ nhưng cũng cần kính nể. Vì vậy, làm Long Chu là dựa theo loại thuyền của vua để chởthần, tướng, âm binh áp tải, tống quái, tống ôn và xú uế đi, mong hưởng cái tốt lành cho nơi cư trú của con người.

Long Chu là từ chỉ chiếc thuyền làm theo hình con rồng. Đây là phương tiện sang trọng dành riêng cho vua chúa ngự lãm hoặc tuần du ngày xưa.

Với dân gian xưa, ôn hoàng, dịch lệ là lực lượng siêu nhiên gây hại cho người, đáng ghét đáng sợ nhưng cũng cần kính nể. Vì vậy, làm Long Chu là dựa theo loại thuyền của vua để chở thần, tướng, âm binh áp tải, tống quái, tống ôn và xú uế đi, mong hưởng cái tốt lành cho nơi cư trú của con người.
Long Chu có bộ sườn đóng bằng tre, nài phết giấy vẽ phẩm xanh đỏ, giữa mình là thuyền, đầu đuôi hình rồng có đủ sừng, râu, kỳ, vẩy... Hông trái buộc một dầm lái, trước buộc một dầm mũi, 4 góc trước, sau thuyền có 4 hình nhân cầm dầm, một hình nhân nữa ngồi ở lái. Trên Long Chu cắm 4 cờ, 4 cán cờ xuyên thẳng qua thuyền thành 4 chân, giữa có lọng che và một phướn, hông thuyền cột dọc 2 đoạn tre cho 4 người khiêng, trong lòng có trang bị đầy đủ đồ dùng cho một bậc quyền uy, có điều tất cả đều bằng tre và giấy màu. Long Chu làm đẹp, xấu, lớn, nhỏ, hiền, dữ tùy thuộc tài năng của thợ mã và yêu cầu đã được dân làng thỏa thuận trước.
Rằm tháng giêng (Thượng nguyên), rằm tháng bảy (Trung nguyên) là hai thời điểm chuyển tiếp giữa mùa mưa và mùa khô. Cuộc sống lạc hậu, thiếu vệ sinh ở thôn quê xưa cộng với tác động của thiên nhiên sau khô hanh, lũ lụt thường có bệnh dịch hoành hành, lây lan cả vùng. Vì vậy tất cả cư dân trong cộng đồng đều có trách nhiệm tham gia cúng Long Chu. 
Chức sắc trong làng và các tộc trưởng cử ra một ban chánh tế và mời thầy phù thủy chủ trì. Họ quyên góp trong dân và xuất quĩ thuê thợ mã làm Long Chu, số khác che rạp, bày hương án tại đình làng, ấp. Không khí náo nức, vui vẻ, mọi lứa tuổi tham gia quét tước trong nhà nài ngõ đúng nghĩa "chộn rộn chàng ràng như làng vào đám". 
Trước lễ chính một ngày, mọi việc chuẩn bị phải xong, 7 thày phù thủy thuộc loại cao tay ấn, do thầy Cả dẫn đầu cùng các học trò lễ (người phụ tá) đi làm phép"trấn đạo lộ" (trấn yểm). Họ mang theo những mảnh bùa vẽ sẵn dán trên mảnh gỗ, tre, vừa đi vừa giật khăn ấn, vừa bắt quyết, phún hỏa (phun dầu hỏa) dựng bùa vào ngã ba ngã tư đường làng hoặc nơi nghi ngờ có quỉ, ôn tụ tập. Những nơi này đều có một bàn thờ nhỏ, thấp, trên có một lư hương. Nơi có đựng bùa hoặc đường dự kiến cho các phù thuỷ cùng đám người đi trấn yểm, trừ tà ma quỉ quái đều được dọn dẹp phong quang, thoáng đãng. 
Trên đường, đoàn trấn yểm kéo dài như đoàn rồng rắn. Phía trước là những người đánh trống, thanh la và các thày pháp vừa đi vừa ái phà, hú hét. Phía sau là cả đoàn dài những người tò mò đi xem. Từng tốp trai thanh gái lịch đứng ở vườn này, vườn kia cất giọng thách hát đối, khi thấy các tốp nam nữ ở ấp khác đi qua. Những điệu hát huê tình, hát đúc, hát kiến tại cứ bay bổng hàng giờ. Khi cuộc hát kết thúc, đám đông nhập vào đoàn trấn yểm và như vậy, cuộc trấn yểm bỗng trở thành cái cớ cho người tứ xứ gặp nhau. Hết những nơi đã định sẵn, các thầy pháp trở về đình dán 4 lá bùa vào 4 cây cột góc và một lá ở cửa chính. Tại đây, nhiều người thuộc các xóm ấp nhỏ trong làng, những nhà vườn lâu nay bị "quỉ ma khuấy phá" đã chầu chực sẵn. Ai cũng mang theo vài tảng đá đã quét vôi đến xin thầy vẽ bùa vào để về yểm. Chánh bái cùng thầy Cả và một số tráng đinh khỏe mạnh kèm ban nhạc, cờ xí đi trước về tại sân đình. Đầu Long Chu xoay vào trong trước mặt có hương án, trên đựng đồ ăn bằng chuối cắt ra gồm bánh trái, xôi thịt, cháo chè, gạo muối, thuốc, nước, củi... mỗi thứ một ít. Thầy Cả làm phép khai quang điểm nhãn, lấy mực và son vẽ 2 con mắt cho Long Chu rồi làm lễ vô khoa (lễ cúng tổ phù thủy) làm khởi đầu cho các lễ sau. 
Đầu tiên là lễ cáo thần (lễ túc yết) vào giờ tý (12-2 giờ đêm) lễ vật đơn sơ, hương đăng trà quả. Đến giờ mão (6-8 giờ sáng) làm lễ tế thần. Lễ này cúng mặn, có heo, gà để bày tỏ lòng thành của dân làng với thần, lính cai quản làng nên hết sức trang nghiêm, trọng thể như lễ đình ở mọi nơi, có văn tế và nhạc đã coi là lệ nên không thể bỏ. 
Xong thủ tục, đến giờ thìn (8-10 giờ sáng) lễ cúng Long Chu chính thức bắt đầu. Thầy Cả mặc áo Thái Thượng Lão Quân in hình bát quái, thắt lưng đỏ, vai vắt khăn ấn đỏ hoặc vàng, chân đi hia, đầu đội mũ tì lư, tay cầm cái vãng cắm hương hoặc cái kỵ lịnh (chuông lắc), tay bắt quyết. Phụ tá cho thầy Cả có các thày con và các học trò lễ cùng dàn nhạc. 
Thầy bắt quyết cho quay đầu Long Chu ra cổng, thầy đọc những bài chú riêng, mỗi đoạn chuyển lại gõ lệnh bài vào hương án, trong khi các thầy con điểm nhạc, đọc kinh hòa theo và dâng những thứ cần cho thầy Cả. Thầy Cả vừa đọc những bài chú đầy bí ẩn vừa đọc văn triệu 32 tướng chỉ huy, văn triệu âm binh, văn phát lương, văn phát nại binh. 
Các bản văn cho thấy đội ngũ binh tướng được triệu đến để trừ tà diệt quỉ là cả một lực lượng khổng lồ. Trên hết là những vị tổ sư: Thượng Thanh Tiên Cảnh - Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Chân Cảnh - Đạo Đức Thiên Tôn, Ngọc Thanh Thánh Cảnh- Nguyên Thỉ Thiên Tôn. Phía dưới là 32 chức vị thần tướng Đông Tây Nam Bắc, ba cung trung đạo và "vạn vật âm binh" tràn ngập trong "thế thiên la địa võng". Lực lượng này được phát lương no đủ (gạo muối) để "ra tay bắt kẻ tà ma làm lệnh", "xây lũy đào hào bủa lưới giăng", "sát quỉ trừ tà hộ bổn chủ". Quỉ ma cũng được đãi đằng tử tế, cả những lời vỗ về hoặc lời lên án nghiêm khắc buộc phải tuân thủ dưới sự thâu tóm của âm binh lên Long Chu đi đày miền khác. Số nào có quá nhiều tội lỗi phải chịu trừ khử. ở đoạn này, thầy Cả đọc văn khao ôn, văn tống quái. Nếu thày Cả già yếu, thày phụ trẻ sẽ đọc văn thay, vừa đọc văn vừa có những động tác múa võ, múa nhập đàn. Phạm vi hoạt động của các thày pháp là cả sân đình rộng. Thầy ra vào tới lui tấp nập như cuộc đấu quyết liệt có thật với lực lượng vô hình, người xem cứ ngày càng phấn kích hể hả ra mặt nhất là khi thày có động thái dữ dội với một tên ma quỉ nan cố, ngạo mạn, khi thì thầy trầm trầm trách cứ với một kẻ đã quen mặt, đã nhiều lần được tha nay lại bị âm binh bắt về. Trường hợp lâu nay có chuyện hỏa tai, có cây cột hiển linh gây đau ốm trong nhà hoặc nửa đêm thốt nhiên có đất đá quẳng rào rào trên mái nhà, thì do chủ nhân đề nghị trước, thầy sẽ cúng thêm và đọc những bài văn "tống hỏa tai", "văn cúng tên bắn đất", "văn cúng mộc trụ".
Nghỉ một lát, vào giờ dậu là đợt cúng cuối cùng sau bài "phát lương", thầy đọc tiếp các bản "văn khao Nương Nương", "văn khao thổ ôn thổ quỉ", "văn khao thủy giới", "văn lễ Hà Bá" được xướng lên. Cuối cùng là bài "văn khao ôn" trong đó có đoạn "tạ Ôn Vương" được đọc nhiều lần. Các thầy phù thủy thay nhau đọc, sau đó thầy Cả vẽ bùa bắt ấn vào Long Chu xướng lớn "yểm ghe đi không được ngó lại", "yểm Lục Giáp, Lục ất, hung thần đi cho mau, Lục Bính, Lục Đinh quỉ mị phải đi gấp, Lục Mậu Lục Kỵ lánh đi cho mau, Lục Oanh, Lục Tân, tà ma hóa ra bụi bặm, Lục Nhâm, Lục Quỉ hung nương lánh mặt đi cho xa". Thầy Cả gõ lệnh bài chan chát vào hương án, các thầy phụ cùng bắt ấn hướng vào Long Chu để giết quỉ ma.
Đến đây lễ tế tại đình kết thúc, chuyển sang phần rước Long Chu. Theo hiệu của thầy chấp lệnh, bốn thanh niên khiêng Long Chu có thầy Cả ngồi trên hai thanh gươm tuốt trần bắt chéo hình chữ X: hai bên các thầy phụ đi kèm, phía sau có ông chánh bái và ban lễ đại diện cho làng, phía trước một số thanh niên mang đuốc chạy soi đường. Người đánh trống chầu thúc ngũ liên, Long Chu chạy lúp xúp tới những nơi đã trấn yểm hôm trước, các thầy phụ đọc kinh, đọc chú, giật khăn trấn yểm. Hết nơi này đến nơi khác. Trên đường rước Long Chu có nhiều trạm dừng chân để thay người khiêng.
Dưới ánh trăng rằm mới lên, mọi người trong làng dùng roi quất khắp nơi rồi tràn ra đường, xông khói lửa đuốc sáng rực ngõ xóm chờ Long Chu đến. Họ đốt pháo, quẳng roi vào Long Chu, giật bùa của thầy về dán ở ngõ. Tất cả đều hào hứng, âm thanh náo loạn. Người lớn, trẻ con chờ xem rồi nhập vào đám rước. Người già trẻ con ai ai cũng thích. 
Long Chu đi hết các nơi phải đi cũng đã đến giờ Hợi. Đám rước đến một nơi vắng thì dừng lại, nổi lửa đốt Long Chu. Nơi gần sông thì họ thả xuống sông, trên Long Chu có những chén dầu lạc làm đèn cháy sáng, trôi dần ra biển. 
Ở đình Cẩm Phô, nài các hình thức như nhiều nơi còn thêm tục "xô cộ" (cổ). Cộ là một dàn tre hình chóp nhiều tầng cao chừng 2m. Mỗi tầng có đặt xôi thịt, bánh trái, tiền... Phía trên là một khung pháo cây. Khi cúng đình xong, pháo nổ mọi người xô vào cướp, ai được nhiều thì xem như có nhiều lộc. 
Người Hoa ở các bang thường làm Long Chu lớn và công phu hơn. Có khi toàn bộ Long Chu làm bằng vải, dài cỡ 5m, phải luồn tre xuống dưới bụng cho bốn cặp người khiêng (8 người) cúng ở chùa Âm Bổn, Ngũ Bang hay chùa Ông. Cộ cũng làm lớn, có khi để cả con heo quay trên đó. Khi có lệnh xô cộ, mọi người tranh nhau vào lấy lộc, có người thật nhanh dành được cả con heo quay để chót vót trên đỉnh giàn mà chạy. Long Chu của người Hoa thường được thả xuống sông, trên đó có thêm rượu, khèn, "sáp ong", heo quay nguyên con, cả gà trống còn sống. 
Ở khu vực Thanh Chiêm (An Nhơn, An Quán, Đông Phương, Phước Kiều) làm Long Chu không đẹp bằng dưới phố Hội An, có khi chỉ là bè chuối có mui che thức cúng, đầu và đuôi rồng làm riêng bằng giấy gắn vào. Việc cúng do làng ấp tổ chức có thầy pháp chủ trì với mục đích "tống sùng trừ ôn dịch", mong một mùa nông sản tốt đẹp. 
Như vậy, lễ hội Long Chu phần cúng lễ kéo dài hai ngày hai đêm, nặng phần phù thủy. Long Chu thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan của người dân xưa, khi chưa cắt nghĩa và có hành động giải quyết được những hiện tượng lạ quanh mình nên để thực hiện phải nhờ đến thế lực phù thủy với các nghi lễ ma thuật huyền bí. Bản chất đích thực tốt đẹp ban đầu bị chìm lấp, tính chủ động, sáng tạo bị kìm hãm nên ý nghĩa hội cũng bị chìm sâu, không nổi trội. Bóng dáng các cuộc hát đối đáp hiện lên mờ nhạt. Trước năm 1945 Long Chu được mọi làng, ấp làm; làng làm lớn, ấp làm nhỏ thường kết hợp với đình nên bị hiểu lầm là hoạt động phụ của tổ chức cúng tế lớn thường kỳ hàng năm. Qua hồi cố, tôi thấy ý nghĩa mục đích của Long Chu có tách bạch, các làng ấp lớn ở Hội An, Duy Xuyên, Điện Bàn quanh vùng Cửa Đại đều có làm Long Chu. Có nơi cúng Long Chu sau dịp tế đình vài ngày, vì phù thủy không đủ để phục vụ đồng loạt các làng cùng một lúc. Có cách giải thích khác rằng Long Chu làm sau để thành hoàng thấy rõ sự bất lực của mình nên càng chăm lo đến việc hơn. Từ 1975 đến nay, lễ hội Long Chu không được tổ chức. Vài nơi, thay vì làm Long Chu, họ làm bè chuối để ít gạo muối, bánh trái thả sông. 
Long Chu tuy nặng phần lễ nghi, nhẹ hoạt động hội nhưng nó vẫn là loại lễ hội vì huy động toàn bộ dân cư trong một địa bàn tham gia và là mối lo chung cho mọi người. Đó là sinh hoạt văn hóa-tín ngưỡng cộng đồng. 
Bóc lớp văn hóa nặng về nghi lễ, nó thể hiện mặt nhân văn rất rõ. Đó là cái Nhân trong truyền thống nhân đạo của dân tộc. Quỉ ma quấy phá nhưng chúng vẫn được mời lại để khao vọng, an ủi vỗ về rồi nhờ thần tướng, âm binh tróc nã, phán xử. Bên cái mềm có cái cứng. Trong việc thờ, có khao có tạ, nổi bật lên là lòng cầu mong an cư, hòa bình. Bao trùm là cái nhân bản, khao khát tự khẳng định bản ngã giữa đời giữa đất của mình, vươn lên không ngừng cho cuộc sống tốt đẹp, thịnh vượng hơn. 
Lễ hội Long Chu, thực chất là một cuộc tổng tấn công trừ khử tà ma dịch bệnh và cũng là công cụ để chuyển tải, bày tỏ sâu sắc văn hóa của cộng đồng cư dân nông nghiệp. Dù ở mức độ nào cũng có tác dụng đoàn kết, hòa đồng, để cùng chiến thắng, để mưu sinh. 
Cư dân Hội An có một quá trình tụ cư, hỗn cư, hợp cư nên đương nhiên có sự tiếp thu những văn hóa của các dân tộc người có quan hệ. Trong điều kiện phát triển đô thị - thương cảng trung chuyển mậu dịch quốc tế nên lễ hội Long Chu có sự tích hợp và hòa đồng giữa Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Đây là một sinh hoạt tổng hợp, có bóng dáng của các môn bùa phép ếm đối thờ đá ở người Chàm, của quan niệm đưa linh hồn người quá cố qua bến Giác Hải của người Trung Quốc, của dấu vết lễ dâng quả đầu mùa cho tổ tiên của người Thái và sự tạ ơn thần của một số nước ở vùng Đông Nam Á. 
Trong văn cúng Long Chu xuất hiện tên gọi các vị thần xuất xứ từ Trung Quốc, từ Bắc Bộ và Trung Bộ. Các thể văn viết bằng chữ Hán, Nôm có ngâm, có xướng mang phong cách xứ Quảng. 
Mặc dầu có những hạn chế, có màu sắc tín ngưỡng,Long Chu vẫn lấp lánh ước mơ của cư dân nông nghiệp "Gạo Lương Sơn nn tại Thiên Phù, ăn tất quí đầy thiên thu, uống tất sống lâu muôn tuổi, đầy đầy hồ gạo châu tích, tràn tràn hồ lúa khắp vạn nơi". Và, Long Chu vẫn là loại lễ hội kết hợp một sản phẩm sáng tạo văn hóa của cư dân nông nghiệp sông nước Hội An cũng như những lễ hội nước khác cần được tiếp tục nghiên cứu, phát huy những mặt tốt của nó./.